Âm lịch xếp trâu ở hàng thứ 2 trong 12 con giáp. Trâu là vật được xếp đứng đầu trong 6 vật nuôi (lục súc: trâu, ngựa, dê, gà, chó, lợn). Nếu xét theo đẳng cấp thỡ họ hàng nhà trâu thuộc hàng “quý tộc” hẳn hoi. Chả thế mà được đứng trên cả chúa sơn lâm, trên cả con vật thiêng liêng tượng trưng cho vua chỳa – rồng. Cú lẽ 12 con giỏp vốn “khai sinh” ở Á Đông, vùng kinh tế nông nghiệp lúa nước nên “Sửu” được “đề cao” cũng khụng phải khụng cú lý. Nếu khụng vậy chỉ cũn cú nước “kộo cày thay trõu”. Tất nhiờn sử dụng ở đây là sử dụng và đánh giá cao chứ khụng phải dựng theo kiểu “dao trâu thớ gà” đâu nhé !
Họ hàng nhà trõu gồm nhiều chi nhánh và sống rải rác “khắp năm châu”. Trước đây trâu cũng là loài vật hoang dó, nhưng sau đó được con người thuần dưỡng. Có nhà khoa học (E. Botdanop- 1937) cho biết trâu được thuần dưỡng ở Châu Á vào khoảng 5.500 năm trước công nguyên, tức là trâu được thuần dưỡng khi con người bắt đầu biết sản xuất và chăn nuôi. Chả thế mà đến thời vua Nghiêu ((2337 - 2258 TCN), đó thấy nhắc đến trâu được người chăn dắt. Thì đấy ! Ông Hứa Do được vua Nghiêu gọi vào để nhường ngôi, nghe vậy ông cười mà về rồi ra suối rửa tai, gặp ngay ông bạn là Sào Phủ đang dắt trâu ra suối uống nước – rừ rành rành nhộ ! Biết chuyện, Sào Phủ dắt trõu của mỡnh lờn bờn trờn giũng nước cho trâu mỡnh uốug và bảo Hứa Do “Anh rửa tai anh xuống đó tôi sợ trâu tôi uống nhằm". Nhà khoa học K.Kenlo (1910) cho biết Trâu là loài vật thuộc giống gia súc có sừng đầu tiên được thuần dưỡng, tức cũng cỡ “thời Nghiêu Thuấn” cả. Ở ta, năm 1996, nhân dân xó Vĩnh Hùng, Vĩnh Lộc, Thanh Hoá phát hiện một trống đồng Hê gơ I trên thân và tang trống khắc nhiều hỡnh trõu. Đó được thuần dưỡng lâu như thế nhưng hỡnh như một số trâu vẫn chưa “thấm đũn” nờn hay chạy lung tung. Chả là cỏi chuyện “trõu vàng” ở trước kho đồng của ông vua bên Tàu ấy mà. Vừa nghe tiếng chuông của Khổng Lồ là chạy thục mạng không ai ngăn nổi sang tới Hồ Tây bên nước ta, nên hồ này trước gọi là vực Kim Ngưu. Nghe đâu khi “Ngài” chạy sang ta thỡ vàng bạc chõu bỏu bờn Trung Quốc cũng kộo nhau sang ựn ựn. Chả thế mà sỏch giỏo khoa cũ vẫn viết “Nước ta rừng vàng, biển bạc”. Vậy nờn đó cú dạo nhiều người cứ vô tư “xả lỏng” để đến nỗi có địa phương đó hoàn tất quỏ trỡnh ….thanh toỏn rừng ! Từ khi “Ngài” “nhập hộ khẩu” vào Hồ Tõy, nghe cỏc cụ bảo thỉnh thoảng những ngày trời mưa phùn, giú bấc lại thấy ngài chui từ dưới hồ lên bờ đi dạo. Chắc “Ngài” cũng ngại “đụng chạm” vỡ những ngày đẹp trời các gốc cây, ghế đá ở quanh đó các đôi uyên ương đó chiếm trọn. Mà sao dân Hà Nội quanh đó không rỡnh “gặp” “Ngài” lấy một hôm, biết đâu “Ngài” sẽ chỉ cho cách chăn nuôi mới. Trõu vàng chắc “sản phẩm” sau tiờu hoỏ phải bằng vàng, tệ lắm cũng cỡ bạc, hay đồng mà nuôi bằng cỏ thỡ cũn gỡ lời hơn !
Họ hàng nhà Traau chỉ thích “cỏ non” nờn nhiều lúc “mục đồng” cũng phải bở hơi tai với chúng. Không biết “vụ tình hay hữu ý” mà trâu hay “nhìn gà hóa quốc” – thấy lúa non mơn mởn nhưng cho là cỏ và cứ vô tư “đánh chén”. Trâu vốn là loài động vật nhai lại, nên khi ăn cũng chưa cần phải nhai kỹ, cứ tập kết vào dạ dày trước, khi nào “nhàn rỗi” ợ lờn nhấm nhỏp lại. Chuyện này khụng biết thực hư thế nào nhưng có sách bảo Chàng Ngưu Lang vốn là con rể Ngọc Hoàng chăn Trâu lỡ để Trâu “xực” mất đâu đám lúa …hỡnh như bên sông… Ngõn Hà thỡ phải nờn thượng đế giận cách ly hai vợ chồng và chỉ cho gặp nhau mỗi năm một lần vào ngày 7/7 âm lịch hàng năm. Nếu cõu chuyện này là thật thỡ cỏi tội tham ăn của trâu đó gõy ra tội lỗi tày đỡnh, làm “chia lỡa tỡnh cảm vợ chồng” người khác. Chỳ Cuội cũng đó cú lần “mất hồn”: “Chú Cuội ngồi gốc cây đa, để trâu ăn lúa gọi cha ời ời”. Ăn tham, không điều độ nên họ hàng nhà trâu lắm “anh” “béo phì”, nhỡn “vũng 2” “phỡ nhiờu” hơn các vũng khỏc khụng “cao huyết ỏp” mới là lạ. Chả thế mà trõu thở to lắm: “thở như trâu”. Đó vậy lại thờm bộ da khụng lấy gỡ làm mịn màng cho lắm vỡ bản tớnh nhà trõu “vốn sinh trưởng” ở vựng khớ hậu núng nờn luụn thớch dầm mỡnh trong nước nờn da dày- cỡ 3,33-11,2mm) và thụ. Chả thế mà da trâu chỉ dùng đóng vali, giày, dép, và dây cuaroa cho chạy mỏy và ….căng trống chứ so với da một số loài khác làm ví da giá cả ngàn đô một chiếc thỡ đúng là trõu tủi phận vụ cựng !!! Nhưng da Trâu những năm đói kém cũng là nguồn cung cấp prụtớt cho khối người nghèo đấy. Da Trâu phơi khô, để trên gác bếp đem xuống ninh tuy dai nhưng được cái có thêm tí chất đạm nên cũng không hoàn toàn vô dụng cả đâu. “Nhất dỏng nhỡ da” mà mới điểm qua hai tiêu chí đầu trâu đó “rớt hạng”. Ấy là chưa tính nếu trõu nhà mặt cũn cú sẹo nữa chứ ! Chả là vào tuổi dậy thỡ phần lớn nghé đều bị chủ nhân “xỏ mũi” và sau đó mới chính thức “tham gia thị trường lao động” nên để lại vết sẹo hơi xấu. Nhưng không phải nghé thỡ khụng làm gỡ đâu nhé ! Trận đấu giữa trâu chọi to khoẻ của sứ Tàu và nghé của Trạng Quỳnh đó từng mang về “chiến thắng vang dội cho đội chủ nhà” đấy. Hỡnh như trõu cũng biết mỡnh xấu thỡ phải, vỡ tuy khụng soi gương nhưng chắc cũng hay soi xuống nước, rồi cũn “thiờn hạ” bỡnh phẩm sao lại không nghe cơ chứ ! Nhưng trâu khôn lắm, cứ đem bài “đàn gảy tai trâu” ra để lờ đi hết.
Thời buổi này dự cú “nhan sắc” mà “chậm như trâu” thỡ cũng khú “kiếm được hợp đồng” lắm, “trâu chậm uống nước đục” thụi. Ấy là chưa kể đó xấu, lại chậm thỡ “chỉ cú vứt”. Vỡ vậy nờn trâu chỉ kéo cày và chở đồ là chính. Chả thế mà “ba cỏi vụ” lờn truyền hỡnh chỉ thấy bũ khụng hà chứ cú thấy trõu đâu. Này nhé ! Hết quảng cáo “phụ mai con bũ cười”, rồi “cụ gỏi Hà Lan” v.v…chỉ toàn thấy bũ thực hiện. Xem ra bũ cũng cú hơn gỡ trõu nào ? Cũng khụng cú hàm răng trên. Có điều hỡnh như cái vụ mất hàm răng trên của bũ xảy ra trước trâu, vỡ xa quỏ như thế nên mới không thấy văn tự nào ghi lại, chắc ở cái thời cũn chưa có văn tự. Vả lại cú lẽ mấy “anh chị” bũ quảng cỏo sống ở cỏc nước văn minh nên được tiếp xúc với “côn gắc ngừa sâu răng hữu hiệu” từ lõu nờn răng có vẻ “chắc khoẻ và khụng bị sõu”. có như vậy mới dám “cười trên truyền hỡnh” chứ ! Với lại bũ nhanh nhẹn hơn, năng động hơn.
Hỡnh như đời Trâu sinh ra là để “kộo cày trả nợ”. Chả là vốn kiếp trước nợ người ta nên kiếp này phải làm trâu để trả nợ cũ cho xong ấy mà. Có lẽ sợ lại phạm tội nữa coi chừng lại bị đầu thai, cú khi làm “cỳn” dọn “sản phẩm” cho trẻ em ở kiếp sau nờn Trõu chịu khú “tu nhân tích đức”, cả đời “ăn chay trường” và khụng giết hại dự chỉ là con sõu, cỏi kiến.
Cả đời Trâu chăm chỉ làm ăn, thân thiết với người nông dân, mặt mũi tuy có hơi xấu nhưng nhỡn kỹ thấy cũng “mày rõu nhẵn nhụi” (trõu chỉ cú một chựm ria mộp trắng phớa mụi trờn). Thế mà khụng hiểu tại sao lại phải chịu cỏi tiếng oan truyền kiếp là “ngưu tầm ngưu, mó tầm mó” “đầu trâu mặt ngựa”: “Đầu trâu mặt ngựa ào ào như sôi” (Truyện Kiều- Nguyễn Du). Việc ấy là thế này: Chả là ở Địa phủ, Diêm Vương dùng bọn quỷ sứ thõn hỡnh người nhưng đầu thỡ là đầu trâu, đầu ngựa cả. Ông này cũng “tõm lý chiến” ra phết ! vỡ trõu và ngựa là 2 con vật thõn thiết, cú vẻ hiền từ nờn sai bọn mang hỡnh hài này đi bắt người dù sao họ cũng đỡ sợ hơn chứ nếu dùng hùm, beo, hổ báo có khi vừa nhỡn thấy mặt họ đó “hồn vớa lờn mõy”, xuống Âm phủ cũn đâu tỉnh táo mà lấy khẩu cung được nữa !!! Chỉ tội cho họ nhà Trõu phải tiếng oan. Mà tội cũn tại cả cỏi lóo Ngưu Ma Vương trong Tây Du Ký của Ngụ Thừa Ân tiờn sinh nữa cơ, cậy mỡnh là “vua trõu” và tu luyện thành tinh, lại bị mụ vợ là Bà La Sỏt xỳi bẩy- đàn bà nhiều lúc nguy hiểm thế đấy ! Vỡ thế lóo ta và vợ vỡ thự dai từ trước cứ đón đường đánh Đại Thánh không cho ngài tháp tùng Đường Tăng đi thỉnh kinh. Đúng là “con sõu làm rầu nồi canh” chứ nhỡn chung họ hàng nhà trâu đâu có thế ! Đánh nhau (chọi) “sứt đầu, mẻ trán” rồi cũng thôi ! Đâu có thù dai như cái ông Ngưu ma vương đó đâu. Rồi lại phải cỏi vụ mấy ụng lỏi trõu nữa chứ ! Cứ “trõu bộo kộo trõu gầy” để nâng giá hàng lên và nhiều khi lường gạt người mua nên mới có câu: “Thật thà như thể lái trâu”. Chắc các cụ nói đại khái thế thôi chứ khụng hẳn lỏi trõu nào cũng xấu.
Cú lẽ phải cố gắng trả hết “nợ tiền kiếp” nờn trâu chăm chỉ lắm “Trên đồng cạn, dưới đồng sâu; chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”. Vỡ chăm chỉ nên trâu được “cưng” lắm, được người gọi bằng những lời ngọt ngào, êm ái “trõu ơi ta bảo trâu này”. Thế nhưng nhiều lúc trâu vẫn bị người đánh đít vỡ tội “lười”. Khi nào muốn trốn trỏnh nhiệm vụ trõu lại làm ra vẻ “lóng tai” “thính tai họ, điếc tai cày” để được nghỉ. Những lúc ấy trâu thường bị quát nạt và “đét đít”. Đó trút mang kiếp trõu thỡ rỏng mà chịu, trõu chỉ nhàn hạ khi nào “bao giờ cõy lỳa cũn bụng, thỡ cũn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn” mà thụi. Chả thế mà những ai bị ỏp bức bóc lột, hành hạ mất tự do người ta gọi là “như trâu, như chó”; “Nú coi mỡnh như trâu, như chó; Nó coi mỡnh như cỏ như rơm” (Hải ngoại huyết thư – Phan Bội Châu; Lê Đại dịch) đó là gỡ.
Thế nhưng nhiều khi người ta cũng chỉ giả quát trâu thôi chứ chưa hẳn là quát thật, chỉ là “Mượn gió bẻ măng” và “Giương đông kích tây mà thôi”. Chuyện là thế này: chả là đời bà Hoàng đế Vừ Tắc Thiờn bờn Tàu lận ! Cú ông tể tướng Dương Thái Tư trong buổi vào chầu, đường trơn lầy lội, phía trước lại có một bác đánh xe trâu. Quân lính thét dân nhường đường để quan tể tướng đi. Bác chở xe trâu tức quá đợi khi tể tướng gần đến nơi mới chửi: Một lũ tể tướng ngu si ! Không biết điều hoà phải trái làm tao không tiến lên được, thật khổ. Chả là trong tiếng Hán: tể vừa có nghĩa là tể tướng vừa có nghĩa là mổ thịt, bác này lợi dụng chửi trâu mỡnh là đồ giết thịt nhưng thực chất là chửi tể tướng. Biết bỏc xe trõu chửi mỡnh nhưng tể tướng lại lợi dụng sự đồng âm của từ này để khuyên bác đánh xe: Trâu bác mệt lắm rồi, không nên chỉ cái tướng đáng mổ thịt của nó nữa. Chắc tể tướng cũng tự biết lỗi đường trơn, lụt lội là do lỗi của mỡnh. Hổm rày ta cũng lụt lội quá trời nhưng có vị quan lại bảo đường trơn, ngập lụt là do trời ! Xem ra người xưa cũng “Tự do ngụn luận” ra phết !
Được cái nọ thỡ mất cỏi kia, trõu tuy vậy lại được cái thông minh, nhớ dai. Này nhé ! Người ta bảo “ngu như bũ” chứ cú thấy ai núi “ngu như trâu” đâu. Ngoài cái vụ lừa đốt được lóo hổ năm xưa, để đến nỗi thích chí quá cười va vào đá mất cả hàm răng trên, trõu cũn rất nhớ đường nên các cụ dặn: “Lạc đường theo chó, lạc ngừ theo trõu”. Kể cũng lạ, sao trõu thụng minh vậy mà người ta không dùng sữa trâu lại đi dùng sữa bũ với quảng cỏo được lấy đâu từ … “cụ gỏi Hà Lan” và “giỳp trẻ thụng minh, chúng lớn”. Vỡ ớt được ưa chuộng trên thế giới nên sữa trâu hỡnh như chỉ dùng “nuụi con bằng sữa mẹ” là chớnh. Trên thế giới chỉ Ấn Độ là dựng toàn sữa trõu. Một “chị” trâu Murrah cho đến 1500 kg sữa/năm. Chả biết cú phải nhờ sữa trõu từ cuộc “Cỏch mạng trắng” không mà dân Ấn Độ ngày càng thông minh và trở thành nước xuất khẩu phần mềm lớn nhất thế giới.
Ở các nước nông nghiệp trâu là nguồn cung cấp sức kộo chớnh, chả thế mà dõn ta xem “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà” được xem là những việc lớn của đời người. Vỡ quý như vậy nên bác xó Chớnh trong “Con trõu” của Trần Tiêu cả đời mơ có một con trâu cái mà vẫn không toại nguyện, đến khi hấp hối bác chỉ lẩm bẩm 2 tiếng “con trõu”. Chả biết giờ trõu cú cũn quý khụng mà cú dạo dư luận ồn ào có vị quan nọ cưỡi chiếc xe trị giá cả ngàn con trâu !!! Tuy được xem là “của quý” nhưng có lúc trâu cũng bị coi “không ra cái đinh gỡ” đấy là lỳc phỳ ông muốn đổi chiếc quạt mo của Bờm bằng “ba bũ, chớn trõu”, nhưng bị Bờm cự tuyệt ! Bờm cú khỏc ! Thế nhưng ở Việt Nam trâu không chỉ kéo cày mà cũn kộo cả ….giặc lỏi. Trong khỏng chiến chống Mỹ, phi cụng Gedeon Willan Selbek lỏi mỏy bay F.105 bị ta bắn rơi ngày 7/8/1966 đó được đưa lên xe trâu chở về trại giam và bức ảnh này đó đem lại huy chương vàng cho nhiếp ảnh gia Văn Bảo.
Trọng lượng của trâu rất to, trâu đực nặng khoảng 700-800 kg, cũn “cỏc nàng trõu” cũng cỡ 500-600 Kg. Chả thế mà cú vị quan nọ, khi thấy trong nhà có con chuột bằng bạc mới hỏi ở đâu ra. Bà huyện thuật lại là do bà núi quan tuổi tý nờn dõn làng nọ đúc tặng quan ngài. Nghe xong quan ngài đó mắng vợ: “Sao ngu vậy ! Lại di bảo là tuổi tý, cứ bảo tuổi sửu cú được khụng !!!” Cú lẽ quan ngài muốn khụng phải 12 mà phải là 14 con giỏp bởi cần thờm 2 con nữa là… voi và khủng long. Trõu cũn là nguồn cung cấp thịt lớn, bởi trâu cho thịt những 50% thể trọng của cơ thể. Thịt trâu lại rất ngon, rất bổ, nhiều các chất vi lượng nờn cú những lũ mổ cú ngày đưa ra thị trường tới cả trăm trâu. Nhưng dù có đi khắp các chợ cũng khụng mua được thịt trâu vỡ chợ chỉ bỏn…thịt bũ. Trõu tăng trọng rất nhanh, mỗi ngày có thể tăng 500-700gr nên thịt trâu nói chung nhiều nước, nấu nướng không khộo dễ ngót nhiều nên xưa các cụ dặn “Làm rể chớ nấu thịt trõu”, có ngày dễ bị nghi là ăn vụng. Trõu cũn là nguồn cung cấp phõn bún lớn cho sản xuất nụng nghiệp bởi mỗi năm một trâu trưởng thành cho từ 3 – 4 tấn phân nguyên chất và cũng từng ấy nước tiểu. Ngoài ra nhiều bộ phận của trõu cũn là những vị thuốc quý như A giao – Minh Giao; Ngưu Hoàng mà giáo sư Đỗ Tất Lợi đó chỉ ra cụng dụng rất rừ trong cuốn “Những cõy thuốc và vị thuốc Việt Nam”.
Trõu cũng tham gia vào các lễ hội của con người như lễ hội dõm trâu, Hội chọi trâu Đồ Sơn “Dù ai buôn đâu bán đâu; mùng mười tháng tám chọi trâu thỡ về”.
Trõu cũn tham gia “chiến trận”. Những năm 1870 ở Bắc Giang, Bắc Ninh, binh đội trâu của nghĩa quân Giáp Văn Trận đó làm cho quõn triều đỡnh nhiều phen tỏn loạn. Binh đội trâu của thủ lĩnh nghĩa quân chống Pháp Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười cuối thế kỷ XIX cũng nhiều phen làm cho giặc phải “kinh hồn, bạt vớa”. Thế nhưng chiến tích lẫy lừng nhất của trâu phải kể đến đó là 1000 “dũng sĩ trõu” của tướng Điền Đan nước Tề thời Chiến Quốc đó đánh quân Yên thu lại 70/71 thành trỡ của nước Tề bị quân Yên chiếm giữ.
Trõu vốn đó ham ăn lại nhiều lỳc khụng thớch “ăn cỏ đồng ta” nên chăn trâu chắc không phải công việc nhàn hạ. Ấy vậy mà xưa nay chỉ thấy người ta ca ngợi thú chăn trâu chứ chưa mấy ai phàn nàn bao giờ. Chắc cũng tại từ cái ông Sào Phủ, Hứa Do năm xưa cũng thích chăn trâu hơn…làm vua. Rồi đến cái ông Lưu Bị khi mới nhảy qua “Đàn Khê” thoát nạn đến nhà Tư Mó Huy thấy em bộ chăn trâu đang thổi sáo trên mỡnh trõu liền than: Ta thực khụng bằng nú ! Mà cú lẽ xa xưa nữa phải kể tới ông Lóo Tử, lỳc nào cũng cưỡi trên mỡnh trõu trụng ung dung, nhàn hạ mà bắt thốm. Thế nờn Học giả Trần Trọng Kim và Bựi Kỷ trong “Quốc văn giáo khoa thư” đó ca ngợi cỏi thỳ chăn trâu với lời tựa “Ai bảo chăn trâu là khổ”. Sau này nhà thơ Giang Nam cũng viết “Ai bảo chăn trâu là khổ; tôi mơ màng nghe chim hót trên cao”. Có lẽ trẻ nhỏ thích đi chăn trâu bởi được vắt vẻo trên lưng trâu, được thả diều, thổi sáo, nằm ngửa nhỡn ngắm trời xanh. Chăn trâu vốn thích như thế nhưng nếu trẻ nào học dốt hay nhác học đều bị cha mẹ doạ là “Học dốt thỡ về chăn trâu” hay “Khụng học thỡ chỉ cú nước đi chăn trâu”. Núi thế cú lẽ khụng bằng cho lắm. Thế ra trẻ trõu là “đặc cán mai” cả chắc ? Chưa chắc đâu nhé ! Vua Đinh Tiên Hoàng chả từ “trẻ trõu” mà ra đấy sao ? Tể tướng Ninh Thích của Tề Hoàn Công, Tể tướng Bách Lý Hề của Tần Mục Công cũng chăn trâu cả đấy. Rồi mưu sĩ Đào Duy Từ, tác giả của “Hổ trướng khu cơ”, kiến trúc sơ của Luỹ Thầy nổi tiếng – người đó giỳp chúa nguyễn tạo lập xứ đàng trong khi mới từ Thanh Hoá trốn vào Nam theo chúa Nguyễn chẳng đó làm nghề chăn trâu đó sao ?
Như đó núi họ hàng nhà trõu cú nhiều chi phỏi khỏc nhau và cú mặt khắp nơi, vỡ thế lan man quỏ cú khi dụng dài “rỏch việc”, khụng khộo cũn đụng chạm đến “nỗi khổ tõm thầm kớn” của họ nhà trõu, cũng cú khi “vi phạm đời tư” họ hàng bỏc sửu. Vỡ vậy bài viết này xin phộp tạm dừng tại đây. Kính chúc quý độc giả năm mới an khang, hạnh phúc, khoẻ như trâu và sống lâu như rùa./.
Theo Vũ Trung Kiên bài "năm Sửu tản mạn chuyện Trâu" ( báo thanh hoa)
0 Phản hồi:
Đăng nhận xét